Trong nhiếp ảnh, khi nói đến chụp ảnh Macro là người ta muốn nói đến ảnh chụp các chủ thể nhỏ xíu vài mm đến vài cm . Thể loại ảnh Macro được phát minh bởi nhiếp ảnh gia người Đức Fritz Goro với mục đích ban đầu là để phục vụ nghiên cứu khoa học. Macro dịch ra tiếng Viêt là “vĩ mô” , có nghĩa là to lớn, ý là phóng đại những chủ thể nhỏ lên để dễ quan sát .
Khả năng chụp Macro được biểu thị bằng độ phóng đại . Độ phóng đại 1:1 nghĩa là vật thể ở ngoài kích thước 10 mm sẽ cho ảnh kích thước đúng 10 mm ở trên film/sensor. Độ phóng đại 2:1 tương đương vật thể kích thước 10 mm sẽ cho ảnh kích thước 20 mm . Độ phóng đại 1:2 tương đương vật thể kích thước 10 mm sẽ cho ảnh kích thước 5 mm . Do kích thước của máy fullframe 35mm chỉ có 24×36 mm nên một con côn trùng kích thước khoảng 25mm sẽ cho ảnh lấp đầy khung hình , khi phóng ra ảnh lớn nhìn rất ấn tượng .
Tuy nhiên, khi dùng giải pháp này, chất lượng hình ảnh bị giảm đáng kể , nhất là vùng rìa ảnh và bạn sẽ không lấy nét được ở vô cực – trừ trường hợp bạn dùng ống nhân tiêu cự . Để chụp ảnh Macro chất lượng cao, bạn cần một ống kính Macro chuyên dụng. Một ống kính Macro chuyên dụng là một ống kính có thiết kế quang học tối ưu hóa cho việc lấy nét gần , giúp ảnh Macro chụp ra rõ nét từ tâm đến rìa và vẫn bảo tồn khả năng lấy nét vô cực .
Khi độ phóng đại lớn hơn 5:1 , chủ thể lúc này thường chỉ dài dưới 1 mm , không nhìn được bằng mắt thường, người ta bắt đầu gọi đây là thể loại ảnh Micro ( vi mô ) . Ảnh Micro khá xa lạ đối với hầu hết người dùng thông thường, do chủ yếu phục vụ cho các nghiên cứu khoa học .
Đa số các hãng máy ảnh đều sản xuất các ống kính có tên Macro và Micro theo chuẩn này , duy chỉ có hãng Nikon là đặt tên ngược lại : Micro cho những ống độ phóng đại bình thường ( 1:1 trở xuống ) và Macro cho những ống độ phóng đại lớn ( lớn hơn 1:1 ) .